SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: RÈN KĨ NĂNG ĐỔI SỐ ĐO ĐẠI LƯỢNG CHO HSDTTS LỚP 5

Lượt xem: Lượt tải:


Thông tin Nội dung
Tên tài nguyên SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: RÈN KĨ NĂNG ĐỔI SỐ ĐO ĐẠI LƯỢNG CHO HSDTTS LỚP 5
Loại tài nguyên Sáng kiến kinh nghiệm,
Tên tập tin
Loại tập tin
Dung lượng -1
Ngày chia sẻ 02/09/2019
Lượt xem 424
Lượt tải 15
Xem tài liệu Xem Online
Tải về

PHẦN MỞ ĐẦU

Điều 2 của lụât phổ cập giáo dục tiểu học đã xác định bậc tiểu học là bậc học đầu tiên, bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Bậc tiểu học đã tạo những cơ sở ban đầu rất cơ bản và bền vững cho các em tiếp tục học các bậc học trên. Nội dung giảng dạy của tiểu học luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ thiết thực cho cuộc sống, không chỉ thế mà mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh.

Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin đã làm cho khả năng nhận thức của trẻ cũng vượt trội. Điều đó đã đòi hỏi những nhà nghiên cứu giáo dục luôn luôn phải điều chỉnh nội dung, phương pháp giảng dạy phù hợp với nhận thức của từng đối tượng học sinh, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện góp phần đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho quê hương, đất nước.

Trong các môn học ở bậc tiểu học, môn toán là một trong những môn có vị trí rất quan trọng. Các kiến thức, kỹ năng của môn toán có nhiều ứng dụng trong đời sống, giúp học sinh nhận biết mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Một trong những nội dung toán học đáp ứng được mục đích trên đó là đơn vị đo lường.                                       

ĐẶT VẤN ĐỀ

  1. Lý do chọn đề tài:

Học tập phải gắn liền với thực tiễn, phục vụ thiết thực cho cuộc sống. Môn toán ở tiểu học góp phần quan trọng trong việc rèn luyện tư duy, phương pháp giải quyết vấn đề… Việc giúp học sinh hình thành những biểu tượng hình học và đại lượng hình học có tầm quan trọng đáng kể đại lượng hình học có tầm quan trọng đáng kể, vì điều đó giúp các em định hướng trong không gian, gắn liền  việc học tập với cuộc sống xung quanh và hỗ trợ học sinh học tập tốt các môn khác. Đối với nội dung giảng dạy về đo lường các em đã được làm quen từ lớp 1 và hoàn chỉnh ở lớp 5. Các bài tập về chuyển đổi đơn vị đo lường mang tính khái quát cao, nó là một thuộc tính trừu tượng của các sự vật và hiện tượng. Đó là một trong những bài tập có tác dụng rèn luyện tư duy tốt. Song đối với lứa tuổi tiểu học, hoạt động nhận thức chủ yếu dựa vào hình dạng bên ngoài, chưa nhận thức rõ thuộc tính đặc trưng của sự vật. Do đó học sinh rất khó khăn trong việc nhận thức đại lượng. Thực tế trong quá trình giảng dạy đổi các đơn vị đo lường tôi thấy có đầy đủ các dạng: đổi từ đơn vị nhỏ sang đơn vị lớn và ngược lại, rồi đổi từ danh số đơn sang danh số phức và ngược lại v.v… Trong từng dạng đó lại có nhiều dạng nhỏ, học sinh hết sức gặp khó khăn trong việc tếp thu và vận dụng thực hành. Đặc biệt, học sinh lớp 5 đã là học sinh cuối cấp rồi, nội dung về  chuyển đổi đơn vị đo lường trong chương trình của các em không phải là ít . Vì vậy để nâng cao chất lượng dạy học các bài toán về đổi đơn vị đo lường cho học sinh lớp 5 tôi chọn đề tài “ Rèn kỹ năng đổi đơn vị đo đại lượng cho học sinh DTTS lớp 5A1 Trường Tiểu học Lê Lợi” để nghiên cứu.

  1. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:

Trong phạm vi đề tài này tôi đi sâu vào nghiên cứu về các phương pháp đổi mới tiến trình dạy học cũng chính là việc  tích cực hóa hoạt động của học sinh trong quá trình học tập. Sáng kiến này giúp người giáo viên có cơ sở để dạy cho HS làm các dạng toán chuyển đồi số đo đại lượng tốt hơn. Ở đây, giáo viên cần giúp học sinh biết tự mình khám phá những tri thức mới. Qua đó, các em sẽ thông hiểu, ghi nhớ những gì đã chủ động lĩnh hội được và như vậy học sinh sẽ nắm được kiến thức một cách sâu sắc hơn.

Muốn vậy cần phải làm gì? và làm như thế nào? Để trả lời câu hỏi trên thì người giáo viên phải nhìn vào sự thật, phải trông thấy những khó khăn, tồn tại để tìm ra biện pháp rèn  kỹ năng đổi đơn vị đo đại lượng cho học sinh DTTS.

  1. Đối tượng, thời gian nghiên cứu:

Học sinh lớp 5A1 Trường Tiểu học Lê Lợi.

Thời gian thực hiện:  Ngay từ đầu năm tôi tiến hành khảo sát chất lượng về nội dung có liên quan và phân loại học sinh theo nhóm đối tượng. Sau đó là quá trình tìm hiểu qua các đồng nghiệp trong trường và một số trường bạn để thu thập thông tin. Tháng 1 bắt đầu viết sườn sáng kiến kinh nghiệm. Đầu tháng  2 hoàn chỉnh sáng kiến kinh nghiệm.

 

  1. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu:

Nghiên cứu chương trình SGK, SGV Toán, cụ thể (Các dạng toán chuyển số đo độ dài, diện tích, thể tích, thời gian….

Nghiên cứu việc HS lĩnh hội tri thức cũng như việc học sinh luyện tập các dạng toán chuyển số đo

Nghiên cứu tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các môn học lớp 5.

Đọc, nghiên cứu tài liệu sách dạy văn hay, xem các thông tin…

  1. Phương pháp nghiên cứu:

– Phương pháp quan sát

– Phương pháp điều tra giáo dục

– Phương pháp tổng kết kinh nghiệm

– Phương pháp thực nghiệm sư phạm

– Xử lí thông tin bằng thống kê và biểu đồ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHẦN NỘI DUNG.

  1. Cơ sở lí luận:
  2. Đặc điểm tâm lí của học sinh người DTTS:

Trước hết là sự chuẩn bị tâm lí đến trường: có thể quan niệm sự chuẩn bị này là tiền đề quan trọng cho quá trình nhận thức trước khi đi học của học sinh. Các nét tâm lí như ý chí rèn luyện, óc quan sát, trí nhớ, tính kiên trì, tính kỉ luật….của học sinh DTTS chưa được chuẩn bị chu đáo. Việc học chưa được coi trọng vì thiếu động cơ thúc  đẩy, hay nói cách khác, quá trình chuyển hóa nhiệm vụ, yêu cầu học tập cũng như cơ chế hình thành ở bản thân học sinh diễn ra chậm chạp.

Nổi bật trong tư duy của học sinh DTTS cấp tiểu học là các em chưa có thói quen làm việc trí óc, đa số các em ngại suy nghĩ, ngại động não. Khi vấp phải vấn đề khó trong bài học là các em bỏ qua, không biết đọc đi đọc lại, lật đi lật lại vấn đề để hiểu. Các em chưa có thói quen kết hợp kiến thức của bài mới với kiến thức của bài cũ nên thường không hiểu bản chất của vấn đề. Các em không phát hiện ra những vấn đề cần thắc mắc, có khi không hiểu nhưng các em không dám hỏi thầy cô, bạn bè. Các em thường suy nghĩ về kiến thức của bài học một cách xuôi chiều, dễ dãi. Khi suy xét một vấn đề hay một hiện tượng nào đó, các em không biết đi sâu tìm hiểu nguyên nhân, ý nghĩa, diễn biến, kết quả…mà dễ dàng thừa nhận những điều người khác nói. Từ đó dẫn đến việc học sinh khó có khả năng tự học tốt. Các em thích học thuộc , thậm chí học thuộc cả phần sai mà vẫn không hiểu. Đó chính là hạn chế hay rất mắc phải của học sinh DTTS.

Tư duy của học sinh DTTS còn thể hiện sự kém nhanh nhẹn, kém linh hoạt. Khả năng thay đổi giải pháp, thay đổi dự kiến cho phù hợp với hoàn cảnh còn chậm chạp, máy móc, rập khuôn. Mặt khác, do thiếu vốn từ vựng Tiếng Việt, khả năng sử dụng ngôn ngữ yếu nên các em lúng túng trong suy nghĩ, ngại tranh luận, ngại trình bày một vấn đề khó.

Trong tư duy của học sinh tiểu học người DTTS, khả năng “tư duy trực quan-hình ảnh” tốt hơn “tư duy trừu tượng- lôgíc”.

Ghi nhớ máy móc chiếm ưu thế: các em học sinh tiểu học người DTTS ghi nhớ chỉ dựa trên sự lặp đi lặp lại nhiều lần một cách đơn giản. Nhìn chung, các em còn ngại tìm hiểu ý nghĩa của tài liệu. Mặt khác, do trình độ ngôn ngữ Tiếng Việt thấp nên khả năng liên kết các phần của tài liệu của các em không tốt. Các em chỉ nhớ các phần của tài liệu một cách rời rạc, thiếu tính liên tục, thiếu tính hệ thống.

Với HS tiểu học DTTS, sự tập trung cú ý thiếu bền vững. Chú ý có chủ định của các em còn yếu, khả năng điều chỉnh chú ý một cách có ý chí chưa mạnh. Sự chú ý của học sinh đòi hỏi một động cơ thiết thực thúc đẩy, ví dụ: được cô giáo khen, được điểm cao…

  1. Tầm quan trọng của toán đại lượng trong chương trình giáo khoa lớp 5:

Trong chương trình toán tiểu học, các kiến thức về phép đo đại lượng gắn bó chặt chẽ với các kiến thức số học và hình học. Khi dạy học hệ thống đơn vị đo của mỗi lượng đều phải nhằm củng cố các kiến thức về hệ ghi số, đồng thời việc đó cũng góp phần củng cố nhận biết về số tự nhiên, phân số, số thập phân theo chương trình toán tiểu học. Việc so sánh và tính toán trên các số đo đại lượng góp phần củng cố nhận thức về khái niệm đại lượng, tính cộng được của đại lượng cộng được, đo được. Như vậy, dạy học đại lượng và đo đại lượng trong chương trình toán tiểu học nói chung và toán 5 nói riêng rất quan trọng bởi: Nội dung dạy học đại lượng và đo đại lượng được triển khai theo định hướng tăng cường thực hành vận dụng, gắn liền với thực tiễn đời sống. Thông qua các việc giải các bài toán học sinh không chỉ rèn luyện các kĩ năng môn Toán mà còn được cung cấp thêm nhiều tri thức bổ ích. Qua đó thấy được ứng dụng thực tiễn của toán học.

Nhận thức về đại lượng, thực hành đo đại lượng kết hợp với số học, hình học sẽ góp phần phát triển trí tưởng tượng không gian, khả năng phân tích, khái quát hóa, trừu tượng hóa, tác phong làm việc khoa học.

 

 

* Chương trình đổi đơn vị đo lượng ở lớp 5:

–  Đơn vị đo độ dài: Gồm 4 tiết (kể cả ôn tập cuối cấp), trong đó học sinh được củng cố bảng đơn vị đo độ dài, viết số đo độ dài dưới dạng số thập phân.

–  Đơn vị đo khối lượng: Gồm 2 tiết (vì phương pháp đổi đơn vị đo khối lượng giống với đơn vị đo độ dài mà học sinh đã biết cách đổi) học sinh cũng được củng cố bảng đơn vị đo khối lượng và viết các đơn vị đo khối lượng dưới dạng số thập phân.

–  Đơn vị đo diện tích: Gồm 6 tiết (kể cả ôn tập cuối cấp) học sinh được học tiếp các đơn vị đo diện tích lớn hơn m2 (đó là dm2 ,  hm2,  mm2 ).

–  Đơn vị đo thể tích: Gồm 3 tiết, sau khi học về khái niệm thể tích một hình , học được hiểu khái niệm m3, dm3, cm3, quan hệ giữa chúng và từ đó đổi các đơn vị đo đó.

–  Đơn vị đo thời gian: Gồm 2 tiết về bảng đơn vị đo thời gian và đổi các đơn vị đo đó.

Ngoài ra trong các tiết học luyện tập, luyện tập chung  và các tiết học có nội dung khác  học sinh cũng được luyện tập thêm về đổi đơn vị đo.

  1. Thực trạng dạy và học toán đo đại lượng của học sinh lớp 5A1:

Toán là môn học yêu cầu sự chính xác cao. Mặt khác, toán đo đại lượng khá khó dạy so với các nội dung khác, cách dạy còn thiếu linh hoạt trong vận dụng các phương pháp và chưa sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Do vậy, các em trong lớp 5A1  thường gặp những vấn đề sau trong học tập:

– Học sinh đến trường nhưng chưa có động cơ học tập đúng đắn.

– Ảnh hưởng của việc sử dụng vốn từ ngữ trong tiếng mẹ đẻ (tiếng dân tộc Nùng) làm hạn chế khả năng tư duy, trừu tượng, ghi nhớ của học sinh.

– Các em không có thói quen tìm tòi, luyện tập các dạng bài đã học để tích lũy, củng cố kiến thức; ít nghiên cứu bài trước khi đến lớp, không thực hiện đầy đủ yêu cầu của GV.

– Trong giờ học, các em ít tập trung, không động não để phát biểu xây dựng bài mà chỉ đợi giáo viên gợi ý.

– Các em chưa có kỹ năng luyện tập, thực hành, chưa có hứng thú học tập.

Ngoài những thực trạng trên, khi dạy học môn Toán, học sinh lớp 5A1 còn thường mắc một vài lỗi khi làm các bài toán đổi số đo đại lượng như sau:

– Không thuộc các bảng đo đại lượng, không nhớ được vị trí của các số đo, lẫn lộn giá trị của các số đo ở các bảng đo khác nhau.

– Các bài tập về chuyển đổi đơn vị đo lường lại rất phong phú và đa dạng như : Đổi đơn vị đo diện tích, đổi đơn vị đo độ dài, đổi đơn vị đo khối lượng…, trong đó  có đổi từ đơn vị bé  ra đơn vị lớn, từ đơn vị lớn ra đơn vị bé, từ danh số đơn ra danh số đơn, từ danh số đơn ra danh số phức, có liên quan cả số tự nhiên, phân số và  số thập phân. Vì thế nên học sinh thường khó nhớ và hay lần lộn giữa đơn vị này với đơn vị kia, giữa dạng này với dạng khác.

– Học sinh thường không xác định được bài tập cần làm có dạng gì (Từ lớn ra bé hay từ bé ra lớn)

– Khả năng ghi nhớ của hầu hết học sinh là rất kém, trong khi đó các em phải học về tất cả các đơn vị đo lường của chương trình cuối cấp.

– Tư duy trừu tượng của học sinh còn hạn chế dẫn đến học sinh tiếp thu bài còn chưa nhanh, hiệu quả học tập chưa cao.

– Thực hiện các bài tập chỉ dựa vào mẫu, không có mẫu thì ngại suy nghĩ, chỉ làm được khi có gợi ý.

– Chưa nhận thức được việc viết các số đo đại lượng sao cho đúng với nội dung, kết quả  bài toán.

– Còn sai sót nhiều khi thực hiện đổi số đo sang số thập phân hoặc ngược lại.

  1. 3. Nội dung và hình thức của phương pháp:
  2. Mục tiêu:

Môn toán thực chất là rèn cho học sinh kỹ năng tư duy, phát triển trí tuệ. Kiến thức về đơn vị đo lường thường mang tính khái quát cao, trừu tượng. Nhưng đối với lứa tuổi học sinh tiểu học, hoạt động nhận thức chủ yếu dựa vào thuộc tính cụ thể do đó, các em gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức về đại lượng, đặc biệt là dạng toán đổi đơn vị đo lường.

Những phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập nên cần được phát huy trong dạy toán lớp 5. Những phương  pháp và biện pháp này chính là mục tiêu của việc rèn kĩ năng đổi số đo đại lượng cho học sinh lớp 5A1 mà tôi đề xuất để nâng cao chất lượng trong việc tổ chức tiết dạy-học tập toán đổi số đo đại lượng phù hợp với học sinh mình đang dạy.

  1. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:

* Nội dung các giải pháp, biện pháp:

– Phân loại bài tập đổi đơn vị đại lượng.

– Giúp học sinh thuộc tên và mối quan hệ giữa các đơn vị đo liền kề :

– Giúp học sinh hạn chế nhầm lẫn khi chuyển đổi các đơn vị đo.

– Giúp học sinh hạn chế sai lầm khi so sánh số đo đại lượng.

– Giúp học sinh hạn chế nhầm lẫn cách đổi giữa các dạng bài tập khác nhau

* Cách thực hiện các giải pháp, biện pháp:

Phân loại bài tập đổi đơn vị đại lượng.

Để rèn luyện kỹ năng đổi đơn vị đo cho học sinh trước hết giáo viên phải tìm hiểu kĩ nội dung, yêu cầu của chuẩn kiến thức chương trình toán lớp 5, các dạng bài tập liên quan đến đơn vị đo lường trong chương trình sách giáo khoa cuối cấp, để từ đó phân loại được các bài tập về đổi đơn vị đo lường và tìm ra những biện pháp rèn luyện phù hợp. Có thể chia các bài tập về đổi đơn vị đo lường bằng nhiều cách khác nhau nhưng tôi chia thành các dạng  bài như sau:

Dạng 1:   Đổi từ đơn vị lớn sang đơn vị bé .

Dạng 2:   Đổi từ đơn vị bé sang đơn vị lớn .

Dạng 3:   Đổi từ 1 đơn vị đo ra 2 đơn vị đo.

Dạng 4:   Đổi từ 2 đơn vị đo ra 1 đơn vị đo .

Trong mỗi dạng trên có liên quan đến cả số tự nhiên , phân số và số thập phân.

Như chúng ta đã biết, các dạng bài tập về đơn vị đo lường lớp 5 được sắp xếp từ đơn giản đến phức tạp, từ các bài dạng đổi đơn vị đo lường đơn giản để củng cố lý thuyết rồi nâng cao dần đến các bài tập đổi đơn vị đo phức tạp. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng đổi đơn vị đo lường trước hết giáo viên phải giúp học sinh nắm được các kiến thức và kĩ năng cơ bản sau:

– Nắm vững  tên  đơn vị đo, vị trí của các đơn vị đo đại lượng trong bảng.

– Nắm được mối quan hệ giữa 2 đơn vị đo liền kề và giữa các đơn vị không liền kề nhau.

– Xác định được dạng bài và khi đã xác định được dạng thì biết tìm cách làm tương ứng để vận dụng vào bài làm.

– Các cách đổi của từng dạng bài.

Muốn vậy, đòi hỏi giáo viên phải căn cứ vào đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học để lựa chọn phương pháp phù hợp với nội dung và đối tượng học sinh, tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em phát huy trí lực, chủ động lĩnh hội kiến thức, năng động, linh hoạt trong việc luyện tập đổi đơn vị đo.

Qua nhiều năm công tác và tìm hiểu, tôi nhận thấy : với mỗi một loại bài tập đổi số đo đại lượng thì đều có rất nhiều cách đổi khác nhau, trong đó tôi đã tìm ra được những cách đổi hết sức đơn giản mà mang lại hiệu quả rất cao. Trong quá trình rèn học sinh, bằng mọi phương pháp và hình thức hợp lí tôi giúp học sinh tiếp cận và thực hành thành thạo tất cả các cách đổi và đặc biệt quan tâm đến mọi đối tượng (học sinh khá giỏi, trung bình, yếu kém). Thông qua các cách làm này học sinh khá giỏi có thể  đổi bằng nhiều cách khác nhau, phát huy được khả năng tư duy, các em sẽ có kĩ năng và thậm chí trở thành kĩ xảo, còn học sinh trung bình, yếu kém thì sẽ lựa chọn được cho mình cách đổi phù hợp nhất.

  Giúp học sinh thuộc tên và mối quan hệ giữa các đơn vị đo liền kề :

Để học sinh học tốt các bài học đổi đơn vị đo đại lượng, trước hết các em phải nắm được thứ tự  tên gọi các đơn vị đo từ lớn đến bé và ngược lại ; nắm được mối quan hệ giữa các đơn vị đo. Vì vậy giáo viên cần tổ chức cho các em nắm được dưới nhiều hình thức như: thi học thuộc ; kiểm tra lẫn nhau; kiểm tra 15 phút thường xuyên trước mỗi giờ bài, vận dụng nhằm giúp các em nhớ tốt và nhớ lâu . Đây cũng là việc làm nhằm củng cố và tăng cưòng trí nhớ cho học sinh.

Để giúp cho học sinh nắm được các bảng đơn vị đo , tôi đã sử dụng phương pháp cho học sinh ghi vào sổ ghi nhớ, chính cuốn sổ ghi nhớ này sẽ là công cụ giúp các em tự hệ thống lại kiến thức và phục vụ cho các bài tập liên quan.

Ghi tên các đơn vị đo độ dài, đơn vị đo diện tích  theo thứ tự từ lớn đến bé vào vở ghi chép mà tôi quy định – Sổ tổng hợp các công thức và cách giải.

Ví dụ:            Km      hm      dam      m     dm      cm       mm

Km2     hm2     dam2    m2    dm2     cm2      mm2

Ghi số chỉ mối quan hệ trên các khoảng cách  giữa 2 đơn vị đo liền  kề

10        10         10       10        10         10                         ( 2 )  Ví dụ:           Km       hm       dam       m        dm       cm        mm                 ( 1 )

100        100        100      100      100       100                     ( 2 )

Km2      hm2       dam2       m2       dm2      cm2       mm2             ( 1 )

Có thể coi đây là một loại đồ dùng trực quan đắc lực cho học sinh khi vận dụng vào việc chuyển đổi đơn vị đo đại lượng. Đặc biệt là đối với học sinh  trung bình, yếu kém thì đây quả là một thượng sách, trong tất cả các giờ học có nội dung liên quan tôi đều yêu cầu em nào cũng phải đưa đồ dùng trên ra nháp  để vận dụng. Trong thời gian đầu các em xem đây như là vật “bất li thân” khi học về đơn vị đo đại lượng . Sau đó vì  được nhìn nhiều, áp dụng nhiều nên có thể thoát li khỏi vở và các em khi đó đã có kĩ năng làm bài. Có nghĩa là : trong thời gian đầu, khi làm bài tập  học sinh trung bình, yếu kém  luôn luôn phải mở vở có ghi những nội dung trên  để nhìn trực tiếp  vào vở để làm bài. Thậm chí khi kiểm tra các em làm bài nếu thấy những học sinh nào không sử dụng vở trên là tôi nhắc nhở ngay ( trừ HS khá giỏi ). Làm như vậy để học sinh dễ nhớ và nhớ lâu. Dần dần các nội dung ghi nhớ như in sâu vào trong trí nhớ của các em thì không cần nhìn vở cũng làm bài đúng. Khi thực hiện theo cách này không phải tôi không nghĩ đến sự phát triển tư duy cho các em mà tôi đã dựa trên cơ sở đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học người DTTS và đặc biệt là với học sinh trung bình, yếu kém tôi thấy đây là cách tốt nhất giúp học sinh làm được bài, giải quyết được khó khăn trong việc chuyển đổi đơn vị đo.

 

Giúp học sinh hạn chế nhầm lẫn khi chuyển đổi các đơn vị đo: 

Để giúp học sinh không  lẫn lộn giữa các đơn vị đo, tôi đã vận dụng “cách nói dùng  lời lẽ thực tế dễ hiểu ”để giúp học sinh ghi nhớ  mỗi đơn vị đo độ dài, khối lượng ứng với 1 chữ số, mỗi đơn vị đo diện tích ứng với 2 chữ số, mỗi đơn vị đo thể tích ứng với 3 chữ số…..  bằng cách dựa vào  kí  hiệu ở từng đơn vị đo. Cụ thể là :

– “Trên đầu” các đơn vị đo độ dài, khối lượng không có chữ số nào nên mỗi đơn vị đo chỉ ứng với 1 chữ số. Ví dụ: 1m = 10 dm ; 1 km = 10 hm

– “Trên đầu” mỗi đơn vị đo diện tích có chữ  số 2 nên mỗi đơn vị đo diện tích  ứng với 2 chữ số . Ví dụ :  1 m2   = 100 dm2  

– “Trên đầu” mỗi đơn vị đo thể tích có chữ  số 3 nên mỗi đơn vị đo diện tích  ứng với 3 chữ số . Ví dụ :  1 m3 =1000 dm

Trong quá trình rèn tôi thường dùng khoảng cách để thay thế cho đơn vị đo ( mỗi khoảng cách tương ứng với 1 đơn vị đo). Có nghĩa là cứ mỗi khoảng cách giữa  2 đơn vị đo độ dài liền kề nhau thì tương ứng với 1 chữ số,  còn cứ mỗi khoảng cách giữa  2 đơn vị đo diện tích liền kề nhau thì tương ứng với 2 chữ số…..Mặt khác, để học sinh vận dụng tốt trong từng giờ học có liên quan, nếu học sinh làm sai  tôi dùng câu hỏi :  Kí hiệu của đơn vị đo diện tích có gì khác so với đơn vị đo độ dài ? Vậy mỗi đơn vị đo diện tích ứng với mấy chữ số? Sau khi học sinh phân biệt được kí hiệu của đơn vị đo diện tích có chữ số 2 ở góc trên bên phải  ( Ví dụ:  m ) thì học sinh sẽ  biết là  mỗi đơn vị đo diện tích ứng với 2 chữ số . Thường xuyên  được củng cố như vậy nên các em  rất ít sai về lỗi này.

Giúp học sinh hạn chế sai lầm khi so sánh số đo đại lượng.

Nguyên nhân dẫn đến sai lầm này là do học sinh chỉ quan sát số đo mà không quan sát đơn vị đo. Học sinh chưa hiểu bản chất phép đo nên không phân biệt được giá trị đại lượng và số đo đại lượng. Số lớn hay số nhỏ của cùng một giá trị đại lượng phụ thuộc vào giá trị của đại lượng đó lớn hay nhỏ.

Để khắc phục sai lầm này, bên cạnh việc giúp học sinh nắm vững hệ thống các đơn vị đo thường dùng và mối liên hệ giữa các đơn vị đo của đại lượng đó , tôi đã cho học sinh làm nhiều bài tập dạng so sánh số đo đại lượng và lưu ý học sinh khi so sánh 2 giá trị của một đại lượng phải quy về cùng một đơn vị đo.

Giúp học sinh hạn chế nhầm lẫn cách đổi giữa các dạng bài tập khác nhau:

Để học sinh không nhầm lẫn cách đổi giữa các dạng bài, trong quá trình dạy tôi gợi ý học sinh tìm ra cách làm của từng dạng, sau đó tôi tổng hợp và cho học sinh ghi vào vở lưu như sau:

–   Đổi lớn ra bé : thường có các cách như :  nhân, thêm 0, điền chữ số vào các vị trí tương ứng, dịch chuyển dấu phẩy sang phải ( nếu số đo đã cho là số thập phân),…

Ví dụ:             41 m = ……… cm.       4,1658 m = ……… cm.

+ Xác định mối quan hệ giữa đơn vị đã cho và đơn vị cần đổi.

+  Dựa vào mối quan hệ trên để lập phép nhân với 10, 100, 1000 ,……

m và cm hơn ( kém ) nhau 100 lần.

1m       =     100 cm

Học sinh dựa vào mối quan hệ đó và lập phép nhân tương ứng.

41  x  100  = 4100                 4,1658 x 100 = 416,58

Vậy:         41 m = 4100 cm.              Vậy :   4,1658 m    =      416,58 cm

–  Đổi bé ra lớn : thường có các cách như :  chia, xóa 0, điền chữ số vào các vị trí tương ứng, dịch chuyển dấu phẩy sang trái ( nếu số đo đã cho là số thập phân),…

Ví dụ:          73mm  =  dm                        73000 mm   =  … dm

+ Xác định mối quan hệ giữa đơn vị đã cho và đơn vị cần đổi.

+ Dựa vào mối quan hệ trên để lập phép chia tương ứng.

+  Xác định mối quan hệ giữa  mm và dm là:   dm và mm hơn ( kém ) nhau 100 lần.                   1 dm  =  100  mm      hoặc   1mm  =     dm

+ Hs sinh dựa vào mối quan hệ đó và lập phép chia.

73  :  100  = 0,73                        73000: 100 = 730

Và có kết quả là:         73  mm = 0,73 dm.         73 000 mm = 730  dm

– Đổi từ 2 đơn vị ra 1 đơn vị đo :   Để học sinh làm đúng dạng trên cần hướng dẫn học sinh :  Xác định số đo nào cần đổi , số đo nào cần giữ nguyên. Phải thực hiện phép  cộng  các số đo có liên quan.

Ví dụ :             8m 5cm = …. cm

+ Xác định số đo cần đổi, số đo cần giữ nguyên.

+ Thực hiện đổi.

+ Thực  hiện phép  cộng số đo vừa đổi được với số đo được giữ nguyên.

8m   là số đo cần đổi về đơn vị cm,   5cm là đơn vị cần được giữ nguyên vì bài yêu cầu đổi về cm.

3m là số đo giữ nguyên, 5 cm là số đo cần đổi về đơn vị m

Đổi      8 m  =  800 cm

800  +   5  = 805     Hoặc :   8m5cm = 8m +5cm = 800 +5 = 805cm

Vậy          8m 5cm = 805 cm

Ví dụ:           3m 5cm   = …  m

Đổi: 5cm =   m

3m 5cm   =    3  m   +  5 cm  =   3m  +   m  =   3  m  =  3,05 m

(Hoặc) =  3m   +  0,05 m  = 3,05 m

   – Đổi từ 1 đơn vị đo ra 2 đơn vị đo: cần giúp học sinh hình thành các bước làm sau:  Xác định trong 2 đơn vị cần đổi thì đơn vị nào lớn hơn. Dựa vào mối quan hệ  để đổi về đơn vị lớn bằng phép chia  hoặc nhân tương ứng. Thương viết vào đơn vị lớn còn số dư viết vào đơn vị bé . ( Lưu ý HS :   thương phải là số tự nhiên ).

Ví dụ   :            5285 m  = ….km  … m

+ Trong 2 đơn vị m và km thì  km là đơn vị lớn hơn nên trước hết đổi về km.

+ Vì  m và km hơn kém nhau 1000 lần nên:

5285  :  1000  =   5  dư 285

+ Ghi 5 vào km và ghi 285 vào m ta có:     5285 m  =   5  km   285  m                            

Đối với việc đổi từ 1 đơn vị đo ra 2 đơn vị đo (trường hợp số thập phân) giáo viên hướng dẫn học sinh làm các bước sau:

+ Xác định phần nguyên bao giờ cũng thuộc về đơn vị đã  cho  và của đơn vị trước đó.( Vì số đo đã cho là số thập phân).

+  Sau đó xác định chữ số của các đơn vị liền sau.           

Ví dụ :     12,45 m  = ….  m  …  cm

+  Vì phần nguyên là 12 nên có 12 m ta ghi 12 vào (1).

+  Liền tiếp sau đơn vị m là dm nên chữ số 4 ứng với dm ( vì trong bảng đơn vị đo độ dài thì dm đứng sau  m và đứng trước cm nên viết 4 vào (2).

+ Liền tiếp sau đơn vị  dm là cm nên chữ số 5 ứng với cm ,viết  5 vào (2).

Ta có :            12,45 m  =  12 m  45  cm

 

(1)      (2)

Vậy:            12,45 m  =  12 m  45  cm

Đối với học sinh trung bình, yếu kém thì đây cũng được coi là 1 loại đồ dùng trực quan tối ưu nhất và không thể thiếu trong khi làm các bài tập có liên quan.

Một điều quan trong nữa là  trong các cách làm thì  cách làm nào dễ nhất tôi dành riêng cho học sinh trung bình, yếu kém và bắt buộc khi làm bài các em phải áp dụng theo cách đó , sau đó mới khuyến khích các em làm theo các cách khác.

Các  mẹo mà tôi vừa trình bày trên đã góp phần rất lớn giúp tôi thành công trong việc rèn kĩ năng chuyển đổi đơn vị đo đại lượng trong những năm qua. Có thể nói, nó chiếm 90% trong việc tạo nên thành công của tôi.

Tóm lại , để rèn kĩ năng chuyển đôỉ đơn vị đo đại lượng tôi đã hướng dẫn học sinh qua nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các cách đều dựa vào dấu  hiệu, vị trí và mối quan hệ  của các đơn vị đo đại lượng như đã trình bày ở phần biện pháp chung và vận dụng tối đa tác dụng của  đồ dùng dạy học có dạng:

10        10         10       10        10         10

Km       hm       dam       m        dm       cm        mm

Với  thứ mẹo này học sinh rất dễ áp dụng và các em cảm thấy rất thú vị. Tất nhiên trong quá trình rèn luyện, trên từng bài, từng dạng cụ thể người GV cần có những câu hỏi gợi mở, những thao tác  và cách dẫn dắt khéo léo của mình để học sinh biết vận dụng các cách làm trên. Đối với học sinh yếu, học sinh trung bình là phải bắt buộc các em thường xuyên vận dụng để tạo thành thói quen ( Vì  khả năng tư duy và sự ghi nhớ của cá em rất kém ).

Việc rèn luyện kĩ năng chuyển đổi đơn vị đo trên không chỉ thực hiện riêng các bài tập trong sách giáo khoa mà tôi còn kết hợp cả vở bài tập hoặc các tài liệu khác nữa để các em có điều kiện rèn thông qua các tiết học ôn luyện.

  1. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp :

Giữa các giải pháp, biện pháp luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, luôn bổ trợ cho nhau cùng hướng tới một mục đích là thực hiện tốt các phương pháp rèn kĩ năng đổi số đo đại lượng cho học sinh thiểu số lớp 5A1.

Từ việc tổ chức cho học sinh học thuộc các bảng đơn vị đo đại lượng và mối quan hệ giữa các đơn vị đo liền kề, từ đó học sinh sẽ hạn chế được việc nhầm lẫn khi chuyển các đơn vị đo và sai lầm khi so sánh số đo đó. Nhờ những nền tảng đó học sinh có thể ứng dụng tốt vào các dạng bài tập khác nhau về  đổi đơn vị đo độ dài, khối lượng, diện tích hay thể tích…

Với những biện pháp như đã trình bày ở trên đã giúp cho cả tôi và học sinh tự tin, chủ động hơn trong các tiết học tập toán đại lượng. Các giờ học toán cũng trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn. Học sinh không còn lúng túng trong việc thực hiện các bài toán chuyển đổi nữa. Các em đã biết đọc yêu cầu, nắm được những trình tự cần làm của bài toán; biết tư duy, suy nghĩ tìm cách giải nhanh và chính xác nhất.

  1. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học, phạm vi và hiệu quả ứng dụng:

Trong quá trình áp dụng các phương pháp nhằm rèn kĩ năng đổi số đo đại lượng cho học sinh thiểu số lớp 5A1, tôi nhận thấy chất lượng của môn Toán đã nâng lên rõ rệt. Học sinh từ việc chưa thành thạo đổi các số đo đại lượng, chưa học thuộc bảng đo đại lượng, còn hay nhầm lẫn khi thực hiện đổi và so sánh thì nay đã nắm được các kiến thức về bảng đo đại lượng, làm tốt các bài tập đổi số đo.

Xin trích dẫn vài số liệu thống kê kết quả khảo sát khả năng làm toán và kết quả kiểm tra định kì môn Toán của 12 học sinh ở lớp tôi chủ nhiệm như sau:

Kết quả khảo sát về khả năng làm Toán đại lượng năm học 2018-2019

Khả năng Thời điểm khảo sát
Đầu năm học Giữa học kì I Cuối học kì I
– Làm tốt bài tập đổi đơn vị đại lượng. 2 em 3 em 5 em
– Thuộc tên và mối quan hệ giữa các đơn vị đo liền kề . 3 em 9 em 12 em
– Hạn chế được nhầm lẫn khi chuyển đổi các đơn vị đo. 3 em 5 em 10 em
– Hạn chế sai lầm khi so sánh số đo đại lượng. 3 em 5 em 11 em
– Hạn chế nhầm lẫn cách đổi giữa các dạng bài tập khác nhau 2 em 5 em 7 em

 

Vào cuối tháng 1 đầu tháng 2 năm 2019, sau khi đã học xong các tiết ôn tập về đơn vị đo độ  dài, khối lượng, diện tích, thể tích tôi đã ra một bài tập tổng hợp tất cả các dạng bài tập có liên quan  trong chương trình lớp 5 để khảo sát chất lượng học sinh sau quá trình rèn luyện. Kết quả thu được là :

Tổng số bài kiểm tra là 12 bài. Số bài Tỉ lệ
Tổng số bài hoàn thành tốt 5 41,7%
Tổng số bài hoàn thành 7 58,3%
Tổng số bài chưa hoàn thành. 0 0%

 

 

 

 

 

 

 

PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

  1. Kết luận:

– Sau khi thực hiện các biện pháp, giải pháp như trên vào trong giảng dạy, học sinh trong lớp tôi đã dần : biết tự phân loại bài tập đổi đơn vị đại lượng. Từ đó các em làm được các dạng bài tập đổi đại lượng  khác nhau mà không bị nhầm lẫn, không bị sai khi so sánh các số đo đại lượng nữa. Tự mình hình thành được các mẹo  giúp làm toán linh hoạt và nhanh nhẹn hơn mà không cần sự hỗ trợ của giáo viên nữa.

– Học kì 1 vừa qua lớp 5A1 đã có nhiều tiến bộ trong học tập kết quả đạt được như sau: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ học tập và rèn luyện có 2 em chiếm tỉ lệ 16,7%. Hoàn thành vượt trội trong học tập môn Toán có 4 em chiếm tỉ lệ 33,3%. Hoàn thành vượt trội trong học tập các môn học khác (Tiếng Việt, Tiếng Anh) có 2 em chiếm tỉ lệ 16,7%.

– Trên đây là bài học kinh nghiệm mà tôi đã rút ra trong quá trình nghiên cứu, vận dụng và viết SKKN ” Rèn kỹ năng đổi đơn vị đo đại lượng cho học sinh DTTS lớp 5A1 Trường Tiểu học Lê Lợi”

 – Trong quá trình viết không tránh khỏi những hạn chế, rất mong được sự góp ý, bổ sung của BGH, các đồng nghiệp để sáng kiến này đạt hiệu quả cao hơn.

  1. Kiến nghị:

Với phòng giáo dục: tập huấn nhiều hơn các phương pháp dạy học tích cực áp dụng cho môn Toán và đặc biệt là dành cho học sinh dân tộc thiểu số.

Với ban giám hiệu: cần đầu tư hơn về các tài liệu hay đồ dùng cần thiết trong dạy học toán như: sách tham khảo, sách bài tập, đồ dùng trực quan…..Ngoài ra cần tổ chức nhiều hơn các sân chơi học tập như toán tuổi thơ để học sinh có hứng thú hơn, mạnh dạn và phát triển nhiều hơn về tư duy, trừu tượng.

Với giáo viên bộ môn: cần giúp học sinh thực hành nhiều hơn các bài thuyết trình, báo cáo nhằm tăng khả năng sử dụng ngôn ngữ nói, mạnh dạn, tự tin hơn khi nói ra suy nghĩ, tình cảm của mình.

Với cha mẹ học sinh: cần quan tâm  và tạo điều kiện tốt hơn cho học sinh tiếp xúc với các nguồn tài liệu, sách báo, internet nhằm tăng khả năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp hằng ngày.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Sách giáo khoa, sách giáo viên Toán lớp 5 hiện hành.
  2. Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên Tiểu học chu kì III (2003-2007), tập 2.
  3. Luyện tập Toán cho học sinh lớp 5
  4. Tài liệu tập huấn “Phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm”.
  5. Bài tập Toán 5- NXB Giáo dục
  6. Dạy và học Toán ở Tiểu học – NXB Giáo dục