Kể chuyện Bác Hồ: TÌNH YÊU BÁC DÀNH CHO NHỮNG KHÚC DÂN CA

Lượt xem:

Đọc bài viết

(Trích trong tập Bác Hồ, con người và phong cách – Nhà xuất bản trẻ, xuất bản năm 2007).

 

Vào buổi sáng ngày 2/9/1969, đó là buổi sáng cuối cùng trong cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân của Bác. Bởi sau 9 giờ sáng hôm ấy Người thực sự bước vào cuộc trường chinh của đời mình, để lại cho nhân dân Việt Nam và thế giới sự đau thương mất mát vô cùng to lớn.
Không gian câu chuyện cũng chỉ thu nhỏ trong căn phòng A67. Căn phòng này cách ngôi nhà sàn của Bác chỉ vài chục bước chân. Trước đó theo lời đề nghị của Bác sĩ: để tiện cho việc chăm sóc sức khỏe của Bác, các cán bộ đã đưa Bác xuống ở căn phòng này ngày 18/08/1969.
Sau gần 20 ngày chống chọi với bệnh tật, Bác đã yếu lắm. Nhưng hễ tỉnh lại Bác lại hỏi thăm tình hỉnh chiến đấu ở Miền Nam, tình hình lũ lụt ở Miền Bắc. Người còn dặn các đồng chí phải làm sao để tồ chức ngày lễ Quốc Khánh thật long trọng và nhất định phải bắn pháo hoa cho nhân dân vui. Trong những giây phút cuối đời của cuộc đời mình, đứng giữa ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, đối diện với quy luật nghiệt ngã của sự tồn vong, Bác vẫn luôn nghĩ về đồng bào về đất nước mà “nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Nằm trên gường bệnh sáng 02/09/1969 lúc này người đã rất mệt mỏi, mong muốn cuối cùng của Người là được gặp và thăm đồng bào Miền Nam nhưng không thực hiện được, các đồng chí ai cũng không nỡ rời xa Người dù chỉ là một phút.
Lần đầu tiên tỉnh lại sau cơn đau, Ngừơi nhìn xung quanh rồi hỏi:
Trong các chú có ai biết hò Huế không?”
Mọi người lúng túng nhìn nhau, quả là một tình huống không ai chuẩn bị trước. Thường ngày Người vẫn thường nói “Miền Nam luôn trong trái tim tôi” Thêm vào đó, Huế vốn là mảnh đất đã gắn bó cùng người suốt môt thời gian dài ấu thơ. Giờ đây, trong phút cuối cùng có lẽ Người mong muốn  mang hình ảnh Miền Nam yêu thương, hình ảnh núi Ngự, sông Hương với những kỉ niệm buồn đau theo mình vào cõi vĩnh hằng, bất tử. Nỗi niềm ấy của Người ai cũng thấu hiểu, nhưng tìm nghệ sĩ hò Huế lúc này thì quả thật là rất khó.
Lần thứ hai tỉnh lại, Người lại hỏi, lúc này giọng Người đã yếu hơn:
Trong các chú, ai có thể hát cho Bác nghe một làn điệu ví dặm Nghệ Tĩnh được không?”
Thêm một lần nữa sự im lặng và bối rối bao trùm căn phòng. Câu ví dặm, câu hát dân ca xứ Nghệ đã bao bọc và nuôi dưỡng tâm hồn Người từ thuở lọt lòng. Người lớn lên và đi ra từ chiếc nôi văn hóa quê hương mặn mòi nghĩa tình ấy. Trước giây phút sắp biệt ly, Người khao khát được nghe, được sống trong hơi ấm quê hương.
Lần thứ ba tỉnh lại, Người ngõ ý muốn nghe một khúc dân ca qua họ Bắc Ninh, lần này thật may mắn khi cô y tá bé nhỏ Ngô Thị Oanh đã tiến lại gần Bác và nói:
Thưa Bác để cháu hát cho Bác nghe ạ!”
Căn phòng nhỏ chìm trong tiếng hát, tiếng hát hay tiếng lòng không ai xác định được chỉ biết rằng lời quan họ sâu lắng mà thiết tha quá. “Người ơi người ở đừng về, mà người ơi người ở đừng về…
Cô y tá càng hát càng xúc động, mọi người xung quanh không ai cầm được nước mắt. Cho đến 9h 47 phút sáng ngáy 02/09/1969 trái tim vĩ đại của Bác Hồ đã ngừng đập, để lại tình yêu thương cho đồng bào cả nước.
Sinh ra và lớn lên từ trong câu hát dân ca, từ làn điệu ví dặm ầu ơ ngọt ngào đằm thắm của mẹ, cuối cùng Người thanh thản, nhẹ nhàng bước vào cuộc trường chinh của mình bằng âm hưởng, tiếng hát dân ca.
Giấu mình đi Người chẳng làm phiền ai cả 
Dép một đôi, áo quần vài bộ 
Chỉ có trái tim bao la là tất cả gia tài 
Câu chuyện giản dị mà sâu sắc như biết bao câu chuyện kể về Người. Từ những tình tiết của câu chuyện ta cảm nhận ở Người một tình yêu bao la, lớn lao và đặc biệt. Người không chỉ yêu cuộc sống, yêu con người, cỏ cây, hoa lá mà Người còn yêu biết mấy những khúc hát dân ca, Người thèm nghe một câu hò Huế, một làng điệu ví dặm, một khúc quan họ Bắc Ninh. Đâu phải chỉ là nghe mà là để mang cả hình ảnh quê hương, xứ sở, hình ảnh miền Nam yêu thương vào cuộc trừơng chinh. Cả cuộc đời Người sống cho nhân dân, cho dân tộc không gợn chút riêng tư, hành trang mà Người mang theo vào thế giới người hiền cũng chỉ là ước nguyện bình dị mang theo âm hưởng dân ca vào cõi bất tử. Người đã để lại cho chúng ta bài học sâu sắc, thấm thía rằng: muốn yêu tổ quốc mình càng yêu tha thiết hơn những khúc hát dân ca. Bởi khúc dân ca là linh hồn, là nơi lắng động tình yêu, tinh hoa, bản sắc văn hóa dân tộc. Nó là nguồn sữa tinh thần bồi đắp và bồi dưỡng tâm hồn mỗi con người.
Trước lúc đi xa, Người muốn thế hệ sau hãy yêu những khúc hát dân ca, hãy trân trọng và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

VĂN ĐÌNH – SuuTam